Mùa mưa đến vào khoảng sáu giờ chiều, trong lúc tôi đang làm thí nghiệm ở dưới tầng hầm. Gọi là tầng hầm, nhưng tầng này không nằm dưới mặt đất. Nó được gọi như thế chỉ vì nó nằm dưới tầng trệt, có cổng chính đi vào tòa nhà và phòng giáo vụ. Tòa nhà, nói chính xác hơn là một tổ hợp gồm nhiều tòa nhà liên thông với nhau, nằm trên một mỏm đồi đã được phạt đi một góc để lấy mặt bằng xây dựng. Ngoại trừ một bức tường chắn đất cao bằng bốn tầng nhà ở cuối bãi đất trống rất rộng hiện đang là bãi đỗ xe nhưng vài năm nữa sẽ mọc lên tòa nhà của khoa Công nghệ thông tin, không còn một chút dấu vết gì của quả đồi mà, theo như cái tên "Ngự Lăng" của nó, dường như đã có một thời là nơi chôn cất của một vị vua. Cái bến xe buýt nằm trước học khu có tên là bến Đồi Ngự Lăng, nhưng bọn sinh viên thường gọi nó bằng cái tên khác đơn giản, dễ hiểu hơn: Bến "Khu C", để phân biệt với bến "Khu A" liền trước đó. Từ bến xe buýt, phải leo một cái cầu thang dài, to tướng mới đến được sảnh chính. Trước sảnh có một bãi cỏ vuông vức, mỗi chiều rộng khoảng hai chục mét, bốn góc trồng bốn cây long não non, nghe nói được chiết ra từ cây long não cổ thụ ở học khu chính, học khu Yoshida.
Học khu Katsura, nơi tôi làm việc, là cơ sở mới của Đại học Kyoto. Hai năm trước, phòng nghiên cứu của tôi, cũng như tất cả các phòng nghiên cứu khác thuộc khoa Engineering đã phải làm một cuộc dọn nhà về đây khá phiền phức kéo dài gần hai tuần lễ. Chưa hết, sau đó chúng tôi còn phải rất nhiều thời gian để lắp đặt các thiết bị thí nghiệm và kết nối chúng với hệ thống cung cấp áp lực chung của cả khu. Công việc này phải tuân theo nhiều quy trình, thủ tục nghiêm ngặt và chúng tôi phải phụ thuộc vào một số bên khác, thường là các công ty đã tham gia xây dựng tòa nhà, vì thế công việc tiến triển rất chậm. Mãi đến đầu năm nay, nghĩa là sau gần một năm kể từ khi dời về đây, chúng tôi mới bắt đầu lại chương trình thí nghiệm đã bị bỏ dở trước đó. Điều này tất nhiên có ảnh hưởng xấu đối với tiến độ nghiên cứu của cả phòng, nhưng bù lại, chúng tôi có được một phòng thí nghiệm tối tân, trang bị đồng bộ nhất loạt. Nó giống như một chiếc xe Mercedes đời mới, trong khi phòng thí nghiệm của chúng tôi trước đây ở Yoshida là một chiếc xe ngựa. Nó còn là một nơi trú ẩn tuyệt hảo, với nhiệt độ được duy trì ở hai mươi độ, cố định, liên tục và vĩnh viễn. Một khi đã chui vào đó, người ta mất khái niệm về thời tiết, ngày và đêm.
Tôi đã bỏ lỡ cơn mưa mùa đầu tiên. Khi tôi ra khỏi tầng hầm, nó đã tạnh. Trên mặt đường bê tông chạy xung quanh tòa nhà, dấu vết còn lại của nó là một lớp nước mỏng, đôi chỗ đã lốm đốm khô. Mùa mưa thường kéo dài khoảng vài ba tuần, có khi một tháng. Trong khoảng ấy, hầu như ngày nào cũng mưa. Những cơn mưa thường bắt đầu vào lúc chập tối, và rả rích suốt đêm. Một kiểu thời tiết khiến chẳng ai muốn ra đường vào buổi tối.
Sang tuần thứ hai của mùa mưa, Ayumi nhắn tin cho tôi: "Gion matsuri.Tối nay là yoiyama đấy! Chúng mình sẽ đi chứ? Có cả mấy người bạn của em ở công ty nữa". Tôi nhìn ra ngoài. Trời vẫn mòng mọng nước. Chắc đến tối lại mưa thôi! Nhưng Gion matsuri thì năm nào chả mưa? Tôi nhắn tin trả lời Ayumi, hẹn nàng ở cửa ga Hankyu Karasuma.
Đó là một điểm hẹn thuận tiện vào những ngày thường, nhưng lại cực kỳ bất tiện vào một ngày hội lớn như lễ hội Gion. Nhà ga đầy ắp người, không còn lấy một chỗ trống để đứng chân. Hàng đoàn, hàng đòan người kéo nhau ra khỏi cửa ga như thác lũ, hết đợt này đến đợt khác. Tôi đến sớm, loanh quanh một lúc mới kiếm được một chỗ không quá xa cửa ga và khá dễ tìm, đứng đợi Ayumi. Khoảng mười phút sau thì nàng đến. Cùng đi với nàng còn có ba người nữa. Hai cô gái Nhật và một anh Tây. "Inoue-san, Suzuki-san và Graham-san, người Mỹ", Ayumi giới thiệu. "Cứ gọi tôi là Matt", anh chàng người Mỹ nói, và nở một nụ cười làm quen. Anh ta trạc tuổi tôi, trắng trẻo và không quá cao to như những người phương Tây thường thấy. Ở Mỹ, có lẽ anh ta thuộc vào dạng thấp bé, nhưng ở đây, anh ta đúng là một người mẫu. Vóc dáng cân đối, nhanh nhẹn cộng với khuôn mặt thanh tú với những đường nét gãy gọn như một bức tượng Hy Lạp của anh ta khiến nhiều cô gái phải nhìn trộm, có cô vài ba lần.
- Ở công ty anh làm gì, Matt? - tôi hỏi, sau khi chúng tôi đã ra khỏi nhà ga.
- Tôi đang tập huấn công việc bán hàng - Matt nói - Sắp tới công ty chúng tôi sẽ mở một cửa hàng ở Hawaii, và tôi sẽ phụ trách mảng bán hàng ở đó.
- Hawaii ư? Rất nhiều người Nhật sống ở đó, phải không? - tôi nói - Tôi chỉ nghe nói thôi, còn bản thân thì chưa đến đó bao giờ cả.
- "Rất nhiều" là một từ không chính xác trong trường hợp này, cũng như nói "Có rất nhiều người Mỹ sống ở Mỹ" vậy. Khoảng một nửa dân số Hawaii mang ít nhiều dòng máu Nhật - Matt nói.
- Vậy à? Anh cũng thế chứ? Nếu tôi được phép tò mò một chút... - tôi nói.
- Ồ không. Ít nhất là theo tôi biết. Trong người tôi, chủ yếu là máu Ai-len, nhưng pha thêm một chút máu Đức, một chút Tây Ban Nha, và có lẽ cả một chút thổ dân da đỏ nữa. Và rất có thể còn một chút chút khác nữa mà tôi không biết, nhưng máu Nhật thì tôi nghĩ là không đâu - Mattngừng lại một chút rồi nói tiếp - Nhưng đến thế hệ những đứa con của tôi thì có thể sẽ khác đi đấy. Ôi, ôi! Tôi đến phải lòng các cô gái Nhật mất thôi! Họ quá đẹp, phải không? Này (Matt hạ giọng, gần như thì thào) nói cho tôi biết đi, cảm giác khi có bạn gái Nhật Bản là như thế nào? Và làm thế nào để kiếm được một cô?
- Đừng tấn công vào sự riêng tư của tôi như thế chứ - tôi vỗ vai Matt - Anh cứ thử đi rồi biết. Tôi nghĩ sẽ việc đó chẳng có gì khó đối với anh cả. Theo thống kê thì cứ ba cô gái Nhật lại có một cô ao ước một anh bồ Mỹ. Anh mới đến Nhật được vài tuần phải không? Tin tôi đi, sang tháng sau anh sẽ phải khốn khổ mới chạy thoát được họ đấy. Đừng quá sốt ruột! Người Nhật có câu thành ngữ "những tảng đá lăn thì không có rêu".
- Ừm - Matt ngẫm nghĩ - Nhưng câu ấy chẳng áp dụng vào đây được. Anh thấy đấy, tôi có lăn ra xa họ đâu, mà ngược lại mới đúng!
Matt nói khá to, khiến Ayumi phải ngoái lại nhìn. Nàng và hai cô kia đang đi trước chúng tôi mấy bước chân. Họ nói chuyện ríu rít, thỉnh thoảng dừng lại trước chiếc xe bán đồ ăn bên đường nhưng không mua gì cả. Đi được một lúc, chúng tôi gặp cỗ xe hoko đầu tiên. Cỗ xe cao bằng một ngôi nhà ba tầng, có mái cong, bốn phía căng những tấm thảm dày, thêu chỉ màu sặc sỡ. Phía trước xe hai ba chục cái đèn lồng được kết thành chuỗi rủ xuống như một tấm mành huyền ảo.
Những trận mưa chiều ẩm ướt để lại đôi ba vũng nước đọng trên vỉa hè. Chúng tôi bỏ vỉa hè đi xuống dưới lòng đường để khỏi phải để ý tránh chúng. Từ chiều, những con phố chính đã được chăng dây để ngăn xe, biến thành những phố đi bộ. Các cỗ xe bán hàng ăn, nước giải khát và bia hoặc hàng lưu niệm lặt vặt được kéo ra xếp hàng đoàn hai bên đường, khiến khung cảnh trở nên lạ lẫm, không thể nhận ra đó là những con phố quen thuộc mà tôi đã qua lại hàng chục, thậm chí hàng trăm lần. Ngươi đi hội đổ về mỗi lúc một đông, chen vai nhau mà đi. Thỉnh thoảng có ai đó dừng lại để chụp ảnh là cả dòng người ùn ứ lại. Các cảnh sát viên phải làm việc khá vất vả mới duy trì được lằn dây thừng được dựng tạm bằng cách buộc lên đầu những cái cột nhựa hình nón để ngăn cách hai dòng người ngược chiều.
- Anh có đói bụng không? - Ayumi nói, khi trở lại bên cạnh tôi, để cho Matt có cơ hội tán tỉnh hai cô kia.
- Không, anh để dành chút nữa làm một bữa ra trò luôn - tôi nói.
- Trông cái bánh takoyaki ngon quá đi mất, em phải mua một dĩa mới được - Ayumi nói và kéo tôi vào chỗ xếp hàng.
Mua được dĩa takoyaki và ra khỏi quầy bánh thì chúng tôi lạc mất toán của Matt. Họ đã vượt trước chúng tôi một quãng xa. Sau một chập điện thoại, chúng tôi mới tìm lại được họ ở bên cạnh cỗ xe hoko thứ tư. Đúng lúc chúng tôi đến, đội sáo sắt ngồi trên xe bắt đầu khởi nhạc. Đó là một khúc nhạc có rất ít tiết tấu, giai điệu cũ kỹ, lặp đi lặp lại. Đội sáo gồm toàn thiếu nam đầu chít khăn, mặc đồng phục yugata màu trắng chấm xanh ngồi dọc hai bên thành xe, ống tay áo rộng của họ rủ ra ngoài, rập rờn theo nhịp, trông như những cánh bướm sắp sửa bay thốt lên.
Khi đội nhạc trên chiếc xe vừa ngừng thì tiếng sáo và tiếng khánh sắt trỗi lên ở cỗ xe phía trước, đỗ cách đó quãng độ dăm chục mét. Xen giữa tiếng nhạc là tiếng của người đội trưởng, thỉnh thoảng lại hô lên một câu gì đó để bắt nhịp. Tiếng sáo và tiếng hô của anh ta tung hứng rất nhịp nhàng, lúc trầm lúc bổng, cuốn hút như có ma lực. Chúng tôi thả trôi theo dòng người đi về phía tiếng sáo, và cứ thế đi qua hết cỗ xe này đến cỗ xe khác, cho đến khi òa ra ngã tư Kawaramachi. Đến đấy, đám đông tản ra ba hướng. Một luồng gió bất chợt thổi đến, ẩm và mát như gió biển. Đêm bỗng trở nên xôn xao.
- Chúng ta sẽ đi đâu tiếp đây? - Matt hỏi.
- Không biết - Inoue-san nói.
- Có lẽ xem thế là đủ rồi, hãy đi kiếm cái gì ăn thôi - Matt nói.
- Hay đấy - tôi hưởng ứng - tôi đã đói đến mức có thể ăn hết cả một con ngựa.
- Ái chà, anh dùng thành ngữ tiếng Anh khá hơn tiếng Nhật đấy - Matt nói.
Chúng tôi đi xuôi về phía Sanjo. Trên phố chính, không có nhiều hàng ăn và chúng tôi phải dừng lại mỗi khi băng qua đầu một cái hẻm nhỏ, ngó vào để tìm biển hiệu của một nhà hàng.
- Vào Holly's Cafe đi, ngay phía trước kia kìa - ai đó nói to.
Holly's Cafe? Ký ức đột ngột mở toang. Tôi choáng người đi một lúc, rồi nhớ lại tất cả.
Đó chính là nơi cách đây đúng một năm, Liên đã biến mất khỏi cuộc đời của Kaz.
No comments:
Post a Comment